7/1/2019 Thị trường cà phê ngoài nước và trong nước

Diễn biến thị trường tuần từ 31/12/18-05/01/19: Giá kỳ hạn vững nhờ yếu tố tiền tệ.

Hình 1

Giá cà phê trên hai sàn kỳ hạn tuần đầu năm 2019 dù còn ở mức thấp, nhưng vẫn thấy tiến triển theo hướng tăng dần đến cuối tuần kết thúc ngày 04/01/19 so với ngày giao dịch cuối năm cũ.

Đúng như thế, qua một tuần, giá đóng cửa kỳ hạn robusta London tăng 20 Usd/tấn với biên độ dao động cao/thấp nhất 1.559-1.506 (hình 1), nhưng so với ngày giao dịch đầu năm 02 tháng 1-2019, chỉ tăng 15 Usd với mức chốt ngày ấy là 1.530 Usd/tấn.

Nhìn qua sàn arabica New York, cả tuần hầu như giao dịch theo hướng tích luỹ và đóng cửa cùng kỳ chỉ tăng 0.25 cts/lb. Sàn này không vượt khỏi đỉnh cũ của tuần trước đó mà chỉ dừng lại ở đỉnh 103.25, đáy chạm 99.30 (hình 1), đáy cũng thấp hơn với 99.30 so với 99.40 cts/lb.

Xét theo giá cách biệt giữa 2 sàn, London có đỉnh và đáy cao hơn tuần trước nhưng New York ngược lại cùng kỳ lại thấp hơn.

Ở thị trường nội địa, giá mua bán cà phê loại 2, tối đa 5% đen vỡ ở các tỉnh Tây Nguyên dao động trong vùng 33,4-34 triệu đồng. Giá xuất khẩu cùng loại chung quanh mức 33,7-34,2 triệu đồng mỗi tấn, có khá hơn so với tuần cuối năm 2018 bấy giờ chỉ chừng 33,6 triệu đồng mỗi tấn giao về các kho quanh TP. HCM.

Giá cà phê xuất khẩu dựa trên cơ sở loại 2, tối đa 5% đen vỡ trao đổi với nhau giữa các nhà cung ứng nội địa với công ty kinh doanh xuất khẩu quanh mức trừ 85-95 Usd mỗi tấn dưới giá niêm yết tháng 03/19 sàn kỳ hạn London, nên giá cùng loại giao hàng FOB (qua lan can tàu) chỉ tương đương với trừ 50 Usd/tấn. Trong khi đó, người mua nhập khẩu chỉ chấp nhận giá trừ 85-95 Usd/tấn FOB: hai bên mua bán không gặp nhau trong những ngày thu hoạch mùa mới 2018/19 gần xong và cận Tết Kỷ Hợi 2019 rơi vào ngày 03/02/19 Dương lịch.

Các đồng nội tệ Vnd của Việt Nam và Brl của Brazil tăng giá so với Usd (hình 1) là yếu tố khiến hàng từ hai nước xuất khẩu lớn nhất thế giới ra chậm (1 Usd= 23.199 Vnd và 1 Usd=3,71 Brl) vì thu nhập của nông dân tính trên đồng nội tệ giảm. Chính nhờ vậy, giá kỳ hạn trên hai sàn London và New York không thể giảm.

Thị trường cà phê trong nước: Khó có đột biến về cả hai phía tăng và giảm.

Giá cà phê xuất khẩu loại 2, tối đa 5% đen vỡ đang được chào quanh 34 triệu đồng mỗi tấn, tương đương với 1.465 Usd/tấn (1 Usd=23.199 Vnd), so với giá đóng cửa London ngày 04/01 ở 1545, thì mức chênh lệch là trừ 80 Usd dưới giá tháng 03/19 London. Đối với nhà xuất khẩu, mức này chưa đủ bù chi phí, trong khi đó hàng hoá chưa ra nhiều vì nông dân chưa có áp lực bán do giá thấp và thu nhập tính trên Vnd còn yếu.

Các nhà nhập khẩu thường trả giá rẻ hơn mỗi khi giá kỳ hạn tăng. Nên đến thời điểm đầu tuần này, hai bên mua bán vẫn chưa gặp nhau. Yếu tố này có thể sẽ tạo nên hai hệ quả trái ngược: hoặc là áp lực bán ra trước Tết Nguyên đán do nhu cầu chi tiêu xuất hiện sẽ đưa giá cà phê nội địa và kỳ hạn xuống thấp, hoặc là không bán được thông qua các xuất khẩu, hàng trao tay với nhau trong nước sẽ giữ hay tăng giá nội địa và hàng chốt bán ra nước ngoài không nhiều, sẽ phần nào nâng giá kỳ hạn lên.

Tuy nhiên, sự chuẩn bị tinh thần cho một tháng trước Tết, là giai đoạn thường có khối lượng xuất khẩu giảm, bên mua không mấy lo lắng mà chờ áp lực bán xảy ra sau Tết. Nên thị trường sẽ thấy khó có bùng nổ về giá cà phê nội địa trước Tết.

Theo cách nhìn ấy, giá cà phê loại 2, tối đa 5% đen vỡ tuần này có thể dao động trong biên độ phía cao là 34,5 triệu và thấp 33 triệu đồng mỗi tấn.

NGUYỄN QUANG BÌNH, trên NCIF 7/1/2019

Hits: 200