Một số điểm nổi bật của thị trường cà phê trong tháng 08/19:
-Giá hai sàn phái sinh cà phê arabica New York và robusta London về vùng thấp nhất tính từ đầu niên vụ 2018/19.
-Xuất hiện đáy mới trên cả 2 sàn: robusta chạm 1.267/1.287, là vùng đáy thấp nhất tính từ gần 9 năm nay; trong khi đó giá arabica tạo đáy ở 93.40 cts/lb, cũng là mức thấp nhất của niên vụ 2018/19 và gần mức thấp nhất tính từ 14 năm 86.30 cts/lb (hình 1 – sàn arabica bên trái/sàn robusta bên phải).
-Lợi suất đầu tư trên sàn trong tháng: sàn arabica cơ sở tính tháng giao dịch 12/19 là -6,06% (103.10-96.85) và sàn robusta cơ sở tháng 11/19 cũng -3,47% (1.382-1.334). Nếu tính lợi suất đầu tư trong vòng 1 năm nay sàn arabica -17,22% (117-96.95) và robusta -16,47% (1.597-1.334).
-Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO) ước niên vụ 2018/19 tổng sản lượng thế giới 168,77 triệu bao, tổng tiêu thụ toàn cầu 164,84 triệu bao, thặng dư 3,93 triệu bao. Nếu như cộng với tồn kho cuối kỳ từ 30/09/18 mang sang, ước thế giới thặng dư 8 triệu bao cho niên vụ mới 2019/20 bắt đầu từ 01/10/19.
-Xuất khẩu cà phê 3 nước hàng đầu thế giới: trong 8 tháng đầu 2019 Việt Nam -10,3% đạt 19,83 triệu bao, Brazil trong 7 tháng đầu 2019 đạt 23,5 triệu bao+37,6%. Trong khi đó nguồn xuất khẩu cà phê arabica chế biến ướt từ Colombia trong 10 tháng đầu niên vụ đạt 11.549.000 bao+7,21%.
-Tồn kho cà phê khả dụng tại một số vùng tiêu thụ: đến cuối tháng 06/19 châu Âu (ECS) đạt 12,03 triệu bao (bao=60 kg) tăng 256.117 bao (+2,18%) và Nhật Bản đạt 3,03 triệu bao; tại Bắc Mỹ đến cuối tháng 07/19 đạt 7,1 triệu bao tăng 279.052 bao (+4,09%)
-Cà phê đặc sản: Báo cáo Nghiên cứu Thị trường của Adroit (Mỹ) ước tiêu thụ cà phê đặc sản thế giới năm 2018 đã lên đến 16,23 triệu bao tương đương với 10% tổng lượng tiêu thụ toàn cầu. Tài liệu này cũng ước trong vòng 6 năm tới, lượng cà phê đặc sản được sử dụng trên toàn cầu sẽ tăng lên 24,41 triệu bao.
-Giá xuất khẩu cà phê robusta loại 2, tối đa 5% đen vỡ của Việt Nam đang được giao dịch quanh mức +150/+200 Usd/tấn cao hơn giá niêm yết cơ sở tháng 11/19 London, so với đầu niên vụ (tháng 10/18) phổ biến ở mức -60/-80 Usd/tấn. Như vậy, nếu tính giá xuất khẩu dựa trên chênh lệch giữa cảng lên hàng với sàn kỳ hạn tăng từ 200-250 Usd/tấn.
NGUYỄN QUANG BÌNH
0949393283
Lưu ý bạn không được quyền trích đăng bài vở trên trang này vì đã có bản quyền. Muốn trích đăng, chép lại, mong bạn lịch sự xin phép tác giả. Một khi trích đang, sao chép, nhất thiết phải ghi nguồn và tên tác giả.
Mọi thắc mắc xin gọi cho điện thoại theo số 0949393283, xin lỗi không sử dụng tin nhắn và hội thoại trên bất kỳ mạng xã hội nào như Zalo, FB, Viber…
Hits: 309